Vợ nhặt - Phản ánh con người và cuộc sống 1945

Tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân phản ánh rõ nét nhất cuộc sống thê thảm của những người nông dân trong nạn đói năm 1945 của nước ta. Bên cạnh đó, bài văn cũng đề cao vẻ đẹp chân chất của người nông dân và nói lên khát vọng sống, niềm tin, hy vọng vào một cuộc sống tốt đẹp hơn. 

I. Vài nét về nhà văn Kim Lân

Nhà văn Kim Lân có tên thật là Nguyễn Văn Tài, ông sinh năm 1920, mất năm 2007. Ông sinh ra ở Bắc Ninh và ở tại Hà Nội để học tập và làm việc lúc sinh thời. Hoàn cảnh gia đình ông khá khó khăn nên phải đi làm phụ giúp gia đình từ khi còn học tiểu học.

nha van kim lan

Cuộc sống của ông khiến Kim Lân gắn bó và thấu hiểu hết được những cay đắng, khổ cực của người nông dân lúc bấy giờ. Ông dùng ngòi bút của mình, khắc họa sâu sắc cảnh nông thôn tiêu điều, ảm đạm và cảnh khốn khổ cùng quẫn của nhà nông. Hơn hết, thông qua tác phẩm của mình, ông muốn biểu hiện vẻ đẹp tâm hồn, tài hoa, khát vọng sống và niềm tin của họ.

Những tác phẩm truyện ngắn tiêu biểu của Kim Lân có:

  • Truyện Nên vợ nên chồng trong tập truyện ngắn phát hành năm 1955
  • Truyện Làng năm 1948
  • Truyện Vợ nhặt trong tập truyện ngắn Con chó xấu xí năm 1962

Ngoài viết truyện, Kim Lân còn tham gia viết báo và đóng phim. Một vài vai diễn tiêu biểu mà ông tham gia như:

  • Vai Lão Hạc trong phim Làng Vũ Đại ngày ấy
  • Vai Lý Cựu trong phim Chị Dậu
  • Vai Lão Pẩu trong phim Con Vá
  • Vai Cụ lang Tâm trong bộ phim Hà Nội 12 ngày đêm
  • Vai Bủ Vả trong phim Vợ chồng A Phủ,...

II. Tóm tắt Vợ nhặt - tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Kim Lân

Vợ nhặt được Kim Lân viết ngày sau khi Cách mạng tháng Tám thành công nhưng vẫn còn dang dở và còn bị mất bản thảo. Đến năm 1954, ông mới dựa vào cốt truyện cũ và viết lại truyện ngắn này.

vo nhat

Nội dung của tác phẩm Vợ nhặt có thể được tóm tắt như sau:

“Nạn đói khủng khiếp năm 1945 khiến cho khắp nơi người chết như ngả rạ, người sống cũng vật vờ, vất vưởng qua ngày như những bóng ma. Nhân vật Tràng là một người xấu xí, thô kệch và ế vợ. Anh làm nghề kéo xe bò thuê để kiếm sống, trong nhà còn có một mẹ già.

Trong một lần theo Liên đoàn kéo xe thóc lên tỉnh, Tràng làm quen với một cô gái tên Thị. Vài ngày sau gặp lại, cô gái tiều tụy, đói rách vì nạn đói khiến anh không thể nhận ra. Sau khi biết được, Tràng đã mời cô gái một bữa, cô gái liền không giữ kẽ, ăn liền một lúc bốn bát bánh đúc.

Sau một câu nói nửa thật, nửa đùa của Tràng, cô gái đã đồng ý theo anh về nhà làm vợ. Mẹ Tràng là bà cụ Tứ vô cùng bất ngờ nhưng cũng không hề rẻ rúng người con đâu được nhặt về này. Bà vừa buồn, vừa mừng, vừa lo âu cũng vừa hy vọng. 

Đêm tân hôn của hai người diễn ra trong không khí chết chóc, tủi sầu từ xóm ngụ cư khi có người lại chết vì đói. Sáng ngày hôm sau là một ngày nắng chói lòa mà đẹp đẽ, bà cụ Tứ và cô dâu mới dọn dẹp, quét tước trong ngoài nhà.

Nhìn cảnh này, Tràng cảm thấy mình càng phải gắn bó và có trách nhiệm hơn với cái nhà của mình. Anh nhìn vợ càng hiền hậu đúng mực hơn so với cái vẻ chỏng lỏn chao chát như lần đầu gặp mặt.

ba cu tu

Bà cụ Tứ hồ hởi đãi cả nhà món cháo loãng và một nồi chè. Một nồi chè không hề ngọt ngào như Thị tưởng tượng mà chát xít đến khó ăn - chè cám. Kết thúc truyện là hình ảnh vô cùng sinh động trong đầu óc của Tràng: những người nông dân đói khổ kéo nhau đi phá kho thóc của bọn Nhật, phía trước là là cờ đỏ sao vàng bay phấp phới.”

III. Phân tích Vợ nhặt từ A đến Z

Chúng ta cùng nhau đi vào phân tích kỹ hơn về giá trị và ý nghĩa của tác phẩm Vợ nhặt. Truyện ngắn Vợ nhặt có khá nhiều tình tiết sâu sắc thể hiện được những thông điệp ẩn giấu mà nhà văn muốn nói với người đọc.

1. Ý nghĩa của nhan đề “Vợ nhặt”

Đối với một đấng mày râu thì vợ là biểu tượng của mái ấm và hạnh phúc gia đình. Từ vợ mang một ý nghĩa lớn lao, gắn liền với vai trò thiêng liêng và trách nhiệm cao cả. Trong tác phẩm, vợ lại chỉ cần nhặt là có được. Nhặt vợ như nhặt thứ gì đó rẻ rúng đến tầm thường, một món đồ vô giá trị mà người ta vứt bỏ đi.

y nghia vo nhat

Chỉ qua tiêu đề “Vợ nhặt”, nhà văn đã cho thấy được cái giá trị hiện thực đến đau lòng của nạn đói năm 1945. Con người thật rẻ rúng, bèo bọt và vô cùng khốn khổ.

2. Phân tích nhân vật Tràng

Nhân vật Tràng muốn ngoại hình không có ngoại hình, anh thô kệch, lưng gấu, quai hàm bạnh ra. Anh muốn gia cảnh không có gia cảnh, gia đình nghèo khó, nhà có hai mẹ con và anh phải làm nghề kéo xe thuê để kiếm sống.

2.1 Tràng với cuộc gặp gỡ định mệnh và nhặt vợ

Lần đầu tiên gặp vợ, Tràng vô tư vui đùa mà không có chút tình ý nào với cô gái phụ đẩy xe.

Lần thứ hai gặp vợ, Tràng tốt bụng, chân chất, hiền lành nhưng cũng rất ga lăng. Anh bị cô mắng nhưng chỉ cười còn mời cô ăn một bữa dù mình cũng chả dư dả gì.

Khi vợ đồng ý theo Tràng về làm vợ, ban đầu anh có chút lo lắng nhưng rồi khát vọng hạnh phúc và yêu thương cũng chiến thắng nỗi lo. Anh bắt đầu chu đáo và nghiêm túc, ra dáng một người đàn ông có trách nhiệm hơn khi dẫn cô lên chợ tình mua đồ.

2.2 Tràng trên đường dẫn vợ về nhà

Anh suốt quãng đường về nhà cứ tủm tỉm cười một mình, mắt sáng lấp lánh lại còn vênh mặt tự đắc. Đây là hạnh phúc và vui sướng khi con tim nghèo nàn của anh chàng tội nghiệp được tình yêu dẫn dắt.

Tình yêu còn làm cho anh trở nên hào phóng đến lạ kỳ và trong giây phút nào đó, anh quên đi hết mỏi mệt, khổ nhọc của phận đời. Anh còn mua dầu về thắp cho căn nhà trở nên sáng sủa hơn.

2.3 Tràng và hành động khi về đến nhà

Anh chàng cũng biết ngại ngùng và còn tự thanh minh cho cái sự bừa bộn lộn xộn của mình là do thiếu bàn tay săn sóc của người phụ nữ. Anh còn vội vàng xông xáo dọn dẹp mới lộn xộn ấy một cách rất đáng yêu như những thiếu niên mới biết yêu lần đầu.
 
Anh cũng biết lo sợ, thấp thỏm. Anh sợ vợ sẽ bỏ đi vì cái nghèo khổ của nhà mình, sợ hạnh phúc nhỏ nhoi vừa nhặt được sẽ vụt mất.

nhan vat trang

Dù có đói rách, anh vẫn là người biết lễ nghĩa, trên dưới. Anh thưa chuyện với bà cụ Tứ một cách trịnh trọng. Cái tình yêu cũng làm đầu óc con người ta mở mang ra, anh thuyết phục mẹ với lý do lấy vợ là phải duyên rồi sau đó lại căng thẳng mong mẹ tác thành cho hai đứa. 

Mẹ anh vừa đồng ý thì đã thở phào như trút được cả ngàn cân gánh nặng và lo âu. Cái nét chân chất, mộc mạc của anh chàng trông đến tội mà cũng thấy thương. 

2.4 Tràng vào sáng ngày hôm sau khi cưới vợ

Buổi sáng ngày đầu tiên có vợ, anh thấy mình lửng lơ như trong cõi mơ đi ra, mọi thứ xung quanh mình đều tươi đẹp, sáng sủa hơn. Chính anh, cũng bắt đầu cảm thấy trách nhiệm của mình với gia đình và suy nghĩ cho tương lai.

Tâm tư của Tràng chính là phản ánh hình ảnh những con người thuần hậu, chất phác, có tâm hồn lạc quan và tấm lòng nhân hậu. Họ luôn khao khát một cuộc sống hạnh phúc, một mái ấm gia đình dù trong nghịch cảnh nghèo đói.

3. Phân tích nhân vật Thị

Thị không tên tuổi, quê quán, không họ hàng thân thích. Cô chính là nhân vật đại diện cho những nạn dân bị đói thảm, phải tha hương cầu thực, bần cùng, rẻ rúng đến tội nghiệp.

Cô có “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”, trang phục không hoàn chỉnh, tính cách thì cong cớn, chao chát, vô duyên, tướng ăn thì thô lỗ “sà xuống ăn một chặp bốn bát bánh đúc”, lại còn “ăn xong cầm dọc đũa quệt ngang miệng “Hà! Ngon!”. Cái đói khổ đã làm biến chất cả ngoại hình lẫn tính cách và tâm hồn một con người.

3.1 Thị khi gặp Tràng và theo anh về nhà làm vợ

Thị là một người lao động nghèo vô tư, hồn nhiên khi vui vẻ lao vào giúp đỡ Tràng. Cô cố gắng bấu víu lấy cơ hội để cứu lấy bản thân thoát khỏi cái đói khổ vây quanh. Tràng mời ăn liền ăn, Tràng nói đùa về làm vợ liền về. Đến khi theo sau Tràng về nhà, cô mới bắt đầu thấy ngại ngùng với thân phận mới - vợ nhặt của mình.

Lúc về đến nhà, Thị cũng biết bối rối và ngượng nghịu, biết thân phận mình chưa được công nhận. Cô hai tay ôm chặt cái thúng, chỉ dám ngồi mớm ở mép giường. Chào hỏi bà cụ Tú xong thì chỉ cúi đầu, đâu rồi cái vẻ sưng sỉa, chỏng lỏn khi mới gặp Tràng.

nhan vat thi

3.2 Thị trong vai trò của người vợ ở nhà Tràng

Sáng hôm sau, Thị bắt đầu sắm vai một cô vợ đảm đang, chịu thương, chịu khó, hiền hậu đúng mực. Cô cùng mẹ chồng quét dọn nhà cửa. Khi ăn chè cám, mắt thì tối lại mà miệng vẫn ăn ngon lành vì không muốn làm mẹ buồn.

Thị còn kể chuyện về kho thóc ở Thái Nguyên, Bắc Giang cho chồng nghe, tạo cho anh cũng là cho chính mình một niềm tin về tương tươi sáng của cả gia đình.

Sự nghèo đói có thể làm con người đánh rơi nhân phẩm trong một vài khoảnh khắc nhưng sẽ không thể làm mất đi tâm hồn thiện lương vốn là bản chất của con người.

4. Phân tích nhân vật bà cụ Tứ

Bà cụ Tứ là người mẹ già cơ cực, lam lũ, thương con, lo cho con mà lực bất tòng tâm.

Nhìn thấy con trai nhặt được vợ về, bà mừng có, vui có nhưng sau đó là xót xa, lo lắng. Trong cái hoàn cảnh đói khát của nhà mình, bà xót xa cho con phải lấy vợ nhặt, cũng vui mừng cho con vì đã lấy được vợ nhưng rồi cũng lo lắng cho tương lai nghèo khó của cả gia đình. Tâm trạng của bà hỗn loạn, rối ren nhưng kết lại vẫn là đồng ý cho hai người cưới nhau.

Bà cũng đồng cảm cho kiếp người của đứa con dâu nhặt kia. Thị phải khổ đến mức nào mới đồng ý về làm vợ cho con trai nghèo khó, bần cùng, thô kệch của mình.

Sáng ngày hôm sau, sinh hoạt một ngày khi gia đình có thêm thành viên mới làm “gương mặt bủm beo, u ám ngày thường rạng rỡ hẳn lên”. Trong bữa cơm, bà nói về tương lai đầy hy vọng và bảo ban các con yêu thương nhau, cùng nhau làm ăn. Bà là người mẹ hiền từ, nhân hậu, nhen nhóm niềm tin, hứng khởi và lạc quan cho con cái.

Tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân mang một giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc. Về nội dung, truyện ngắn phản ánh chân thực tình cảnh khốn khổ, bần cùng của người nông dân. Lồng ghép trong những tình tiết của câu chuyện, nhà văn còn thể hiện được giá trị nhân đạo về tình người, bản chất con người và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống tốt đẹp. 

Về nghệ thuật, Vợ nhặt có cách kể chuyện tự nhiên, gần gũi với người lao động. Những lời độc thoại nội tâm làm toát lên được tính cách và phẩm chất của nhân vật. Yếu tố hiện thực và nhân đạo đan xen càng làm cho người đọc khắc ghi và đồng cảm sâu sắc với các nhân vật trong truyện.

Bài viết nên đọc